“Là do chui từ bụng ta ra, chẳng phải mệnh quý thì là gì?”
Quả nhiên… phu nhân là người nhìn thấu mọi chuyện.
Vì hôn sự của tiểu thư, cả phủ trên dưới bận rộn vô cùng.
Ngay cả ta kẻ vốn rảnh rỗi nhất, cũng không có lúc nghỉ ngơi.
“Hỉ Nhi, vào đây một lát!” Tiểu thư gọi ta vào phòng trong.
Trên giường đã trải sẵn chăn cưới đỏ thẫm, trên gấm có thêu đôi uyên ương chơi nước, ta thấy mà khen không ngớt:
“Không hổ là thêu nữ từ Tô Châu, đường kim mũi chỉ… ơ… con vịt gì đó trông sống động lắm!”
Tiểu thư bật cười, gõ đầu ta: “Là Uyên ương!”
“Đúng đúng! Là uyên ương, như thật vậy!”
Tiểu thư nói tiếp:
“Mẫu thân còn đặc biệt đến chùa xin bùa duyên lành, nay vào trong chăn. Còn vài mũi kim ngươi làm giúp ta nhé!”
Ta thoáng giật mình.
Ở nhà thường thì mẹ và chị em ruột mới được may chăn cưới, nhưng rồi lại nghĩ, có lẽ tiểu thư không biết tục ấy, hoặc trong phủ chẳng còn nha hoàn nào rảnh rỗi.
Tiểu thư nói tiếp: “Không gấp đâu, làm từ từ là được.”
Dù lão gia từng nói:
“Nếu Lan nhi không muốn gả, thì không ép.”
Nhưng cuối cùng tiểu thư vẫn chọn làm trắc phi của Thành vương.
Tiểu thư nói:
“Những gì ta có hôm nay, đã vượt xa cả đời người bình thường có thể mơ tưởng. Nếu còn muốn cưỡng cầu tình yêu, Ấy mới là… quá tham.”
Ngày hai mươi tháng Chín, đúng dịp hôn lễ, ta thân là nha hoàn hầu cận, phải theo sát kiệu hoa, cùng đội đưa dâu gõ trống gióng chiêng, đi một mạch từ nam thành đến bắc thành.
Theo lễ chế, tiểu thư chỉ có thể ngồi kiệu sáu người khiêng.
Nhưng phủ Tướng quân đặc biệt chế tác riêng một kiệu hoa lớn, lớn hơn thường lệ, cần sáu người tráng kiện mới khiêng nổi, tuy không là tám người khiêng như chính phi, nhưng cũng đủ khiến người đời hâm mộ.