Tôi viết một bài “Cỏ dại”, đạt giải Nhất cấp huyện, sau đó được gửi đi thi cấp thành phố, đạt giải Ba.
Chị Hương Liễu cũng đạt giải Nhì cấp huyện.
Chị đứng lên ghế, dán tấm giấy khen lên thật cao.
“Sau này, tường nhà mình sẽ dán đầy giấy khen! Cùng nhau cố gắng nhé!”
Ánh hoàng hôn rực rỡ phủ khắp bầu trời.
Chị cười tươi hơn cả hoa hồng bên vệ đường.
Kỳ thi tốt nghiệp tiểu học là kỳ thi chung toàn huyện.
Tôi xếp hạng hơn 150.
Cộng thêm giải Nhất viết văn trước đó, tôi được trường trung học tư thục Trung học Thành Bắc gửi thư mời nhập học.
Chị Hương Liễu ôm chầm lấy tôi, mắt đỏ hoe:
“Trinh Trinh, chị biết mà, em giỏi hơn chị nhiều!”
Cô chủ nhiệm cũng mừng cho tôi:
“Trịnh Trinh, vào Thành Bắc là như đặt một chân vào cổng Nhất Trung rồi. Cơ hội lớn như vậy, em nhất định phải nắm lấy!”
Tôi hí hửng báo tin cho bố mẹ.
Mẹ cười vài tiếng:
“Cũng tốt, lên thành phố học thì ở với bố mày luôn đi, tiện thể cho ổng trông nom.”
Bố lập tức từ chối:
“Dì con sắp sinh rồi, tao còn chẳng chăm nổi cô ấy, sao lo thêm mày được! Mà trường tư phí cao vậy, tao không lo nổi đâu. Mẹ mày chịu trả tiền học với tiền ăn ở thì cứ học!”
Mẹ cũng không vui:
“Tao còn phải để dành tiền xây nhà, cưới vợ cho em mày. Trinh Trinh, mày thông minh vậy, học ở trường thị trấn hay thành phố cũng thế thôi.”
Bên ngoài cửa sổ, mấy đứa trẻ đang đá một quả bóng da cũ kỹ, vàng úa, xẹp lép.
Quả bóng lăn lộn dưới chân từng đứa.
Đứa nào đá được cao, đá được xa, đều hò reo như vừa chiến thắng.
Tôi dập máy, đi lên núi tìm chị Hương Liễu.
Tôi phát hiện: đám cỏ dại ngày nào nở rộ… giờ đã tàn.
Ánh trăng lạnh lẽo trải khắp đất trời, chiếu sáng cả con đường trước mặt, kéo dài bóng hai đứa tôi.
“Đừng buồn. Ngày mai mình đi tìm bố em.”
Nhưng tôi thậm chí còn không bước vào nổi cửa nhà bố.
“Dì con sắp sinh rồi, con đừng tới làm cô ấy khó chịu!”
“Con gái trong làng này đều học cấp hai ở thị trấn, mỗi mày làm như lớn chuyện lắm vậy? Mày mà còn khóc nhè nữa, tiền học ở thị trấn tao cũng không cho!”
Chị Hương Liễu vẫn không chịu bỏ cuộc:
“Vậy mình đi gặp hiệu trưởng trường Thành Bắc, cầu xin ông ấy thử xem có thể miễn học phí được không!”
“Liệu có chuyện tốt thế sao?”
“Không thử thì sao biết!”
Lúc đó trường đã nghỉ hè.
Bảo vệ chặn ngoài cổng không cho vào.
Nghe xong chuyện của tôi, bác bảo vệ cũng cao giọng:
“Hiệu trưởng đang trong trường đấy, nhưng tôi không thể cho hai đứa vào!”
Vậy là chúng tôi ngồi đợi ngoài cổng.
Mọi thứ ở thành phố đều tốn tiền.
Chúng tôi dùng một đồng mua ba cái bánh bao, xin thêm bịch nước máy, ngồi vừa ăn vừa chờ.
Từ mười giờ sáng đến tận sáu giờ tối.
Một người đàn ông trung niên bước ra.
Bảo vệ lập tức đứng nghiêm, hô lớn: “Hiệu trưởng, ông tan ca rồi!”
Tôi và chị Hương Liễu lập tức chạy tới, ấp úng kể lại hoàn cảnh của mình.
Ông hiệu trưởng kiên quyết mời hai đứa tôi ăn tối ở quán bên cạnh.
Món có thịt xào ớt, cá chép kho, thêm một bát canh cà chua trứng.
Lúc ấy, trong lòng tôi tràn ngập hy vọng.
Nhưng sau bữa cơm, ông nói:
“Tôi rất thông cảm, nhưng thành tích của em chưa đủ xuất sắc.”
“Những đứa trẻ hoàn cảnh như em quá nhiều, tôi không có quyền miễn học phí cho tất cả.”
“Tôi xin lỗi!”
Thì ra, đây chính là sự thật tàn khốc của cuộc đời.
Cỏ dại sinh ra từ đất khô cằn, đâu dễ gì được số phận ưu ái.
Chúng tôi sinh ra đã thiếu thốn.
Có lẽ cả đời cũng thế.
Dù có nở hoa… thì cũng chỉ là khoảnh khắc ngắn ngủi.
Hiệu trưởng lái ô tô đưa chúng tôi về đến đầu làng.
Trước khi xuống xe, ông đưa cho tôi một quyển sách: 《Ông già và biển cả》.